Chiều tối là một trong những bài thơ nổi tiếng nằm trong tập Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trong nhà tù Trung Quốc. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá ba bài nghị luận hay về bài thơ “Chiều tối”, và hi vọng rằng những nội dung này sẽ mang đến cho bạn những hiểu biết mới và động lực trong cuộc sống.
1. Dàn ý nghị luận xã hội về bài thơ Chiều tối
I. Mở bài: Bài văn nghị luận xã hội về bài thơ Chiều tối
Giới thiệu chung về tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhấn mạnh giá trị khái quát của bài thơ “Chiều Tối”.
II. Thân bài: Bài văn nghị luận xã hội về bài thơ Chiều tối
- Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh trong bài thơ Chiều tối:
- Vẻ đẹp về nghị lực, trí tuệ, tinh thần lạc quan, ý chí sắt đá…
- Dù bị địch bắt tù đày nhưng Người vẫn không vơi đi tình yêu thiên nhiên. Qua đó thể hiện niềm hy vọng về một ngày mai tươi đẹp.
- Bàn về ý chí, nghị lực của con người trong cuộc sống:
- Biểu hiện của ý chí, nghị lực trong bài thơ.
- Bài học ý thức và hành động:
- Ý chí và nghị lực đóng một vai trò cực kì quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
- Cần rèn luyện cho mình những kỹ năng sống cần thiết để vượt qua khó khăn và là một trong những hướng đi nhanh nhất dẫn đến thành công.
- Có ý thức vươn lên trong học tập và vượt qua thử thách trên đường đời.
III. Kết bài: Bài văn nghị luận xã hội về bài thơ Chiều tối
- Khẳng định ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh trong bài thơ “Chiều tối”.
- Liên hệ với bản thân.
2. Nghị luận xã hội bài thơ Chiều tối
Nhật ký trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc, lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Bài thơ “Chiều tối” được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.
Cảnh hoàng hôn trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của người tác giả.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương.
Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, bởi “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy, lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm. Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do.
Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.
3. Nghị luận văn học: Bài “Chiều Tối”
Nhật ký trong tù là tên tập thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác, khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trong nhà tù Trung Quốc, từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943. Cuốn nhật ký bằng thơ này ghi lại biết bao điều Người đã chứng kiến và tâm tư của Người trong “mười bốn trăng tê tái gông cùm” ấy. Một trong những bài thơ tức cảnh hay nhất của tập thơ này phải kể đến bài “Chiều tối” (Mộ).
“Bài thơ “Chiều tối” được sáng tác trong một hoàn cảnh riêng không có chút gì ấm áp và vui vẻ. Bài thơ tuy tả cảnh “Chiều tối” mà cuối cùng lại sáng. Đúng như nhận xét của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: Bức tranh “Chiều tối” của người lại có được cái ấm áp và niềm vui như thế vì người là một bản lĩnh rất cao, tâm hồn người luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng.
Hy vọng qua những nghị luận văn học này, bạn đã thấy sự tuyệt vời của bài thơ “Chiều tối” và nhận thức sâu sắc về tâm hồn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hãy tiếp tục khám phá thêm về văn học và tìm hiểu về những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời khác trên trang web của chúng tôi.
Thông tin chi tiết vui lòng xem trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của trang web.